Các giống màu cổ truyền có hàm lượng chất chống oxy hóa cao, giàu chất vi khoáng và vitamin hơn so với các giống lúa gạo trắng thông thường, nhưng không phù hợp với hệ canh tác lúa cải tiến hiện nay do chu kỳ sinh trưởng dài, năng suất thấp, cao cây nên dễ bị đổ ngã và khó cơ giới hóa. Do vậy, việc cải tiến giống lúa màu để phù hợp với kỹ thuật canh tác hiện đại và đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của người tiêu dùng là rất cần thiết. Trong khi các nước như Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc và Thái Lan đã thành công trong việc lai tạo các giống lúa màu ngắn ngày, có chất lượng cơm tốt và phù hợp với kỹ thuật canh tác hiện đại, thì Việt Nam vẫn còn rất thiếu các thành tựu về công tác chọn tạo giống lúa màu. Chính vì vậy nhóm nghiên cứu của Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp miền Nam đã thực hiện nghiên cứu “Chọn tạo giống lúa màu đặc sản và xây dựng mô hình sản xuất tại TP. Hồ Chí Minh và một số tỉnh vùng Đông Nam Bộ”. Đây là nhiệm vụ do Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp miền Nam chủ trì thực hiện và TS. Đào Minh Sô làm chủ nhiệm.
Hiện trạng lúa màu trong khu vực TP Hồ Chí Minh và các tỉnh vùng Đông Nam Bộ và xu hướng sử dụng giống lúa màu của người tiêu dùng
Hiện nay, sản xuất giống lúa màu trong khu vực TP Hồ Chí Minh và các tỉnh vùng Đông Nam Bộ còn chưa phổ biến. Các giống lúa màu cổ truyền thường có chu kỳ sinh trưởng dài, cao cây và dễ đổ ngã. Điều này gây khó khăn trong việc cơ giới hóa sản xuất và quản lý canh tác. Gạo màu chứa chất chống oxy hóa, chất vi khoáng và vitamin và chất xơ cao, phù hợp với nhu cầu sử dụng làm cơm gạo lứt để cải thiện sức khỏe, nhất là đối tượng cư dân đô thị, người già và người có vấn đề về sức khỏe.
Các loại lúa màu thường cho ra các loại gạo màu (đen, đỏ, tím), các loại này được ghi nhận chứa chất chống oxy hóa anthocyanin nhiều hơn gạo trắng. Chất này có vai trò hỗ trợ tốt cho sức khỏe người tiêu dùng như làm hạn chế nguy cơ béo phì, giảm phản ứng viêm, chống lão hoá và tác dụng kháng virus,… Vấn đề sức khỏe xưa nay luôn luôn được người dân quan tâm hàng đầu. Ngày nay, người dân đang dần nhận thức về chế độ ăn uống vì nó liên quan và ảnh hưởng trực tiếp tới sức khỏe điều này đang thể hiện rõ hơn trong cách người tiêu dùng Việt Nam lựa chọn thực phẩm hằng ngày. Họ chú ý nhiều hơn đến các loại thực phẩm giàu dinh dưỡng và thay đổi cách nấu ăn để có chế độ ăn uống lành mạnh. Gạo lứt hoặc gạo huyết rồng là một xu hướng mới nổi, được cho là cung cấp nhiều dinh dưỡng hơn và kiểm soát cholesterol tốt hơn, các loại gạo này nguồn gốc từ giống lúa màu.
Tuy nhiên, thị trường tiêu thụ gạo màu vẫn còn mới mẻ và chưa được khai thác hết tiềm năng. Trong nhiều năm qua, công tác chọn tạo giống lúa tại các đơn vị nghiên cứu ở nước ta vẫn chỉ tập trung vào nhóm sản phẩm gạo trắng nên rất thiếu các giống lúa màu được công nhận lưu hành để phục vụ sản xuất. Do vậy, việc Chọn tạo giống lúa màu đặc sản và xây dựng mô hình sản xuất tại TPHCM và một số tỉnh vùng Đông Nam bộ là rất cần thiết, và là nhiệm vụ khoa học công nghệ lần đầu được thực hiện ở các tỉnh phía Nam.
Kết quả mô hình sản xuất giống lúa màu và tiềm năng của giống lúa màu tại TP Hồ Chí Minh và các tỉnh Đông Nam Bộ
Tất cả các nội dung và hoạt động chuyên môn thực hiện nhiệm vụ theo kế hoạch đã được thực hiện đầy đủ, bố trí đúng địa bàn, tuân thủ phương pháp khoa học thực nghiệm và kỹ thuật phù hợp thực tiễn. Công tác báo cáo tiến độ, báo cáo định kỳ và kiểm tra, đánh giá của bộ phận chức năng đơn vị chủ trì được chấp hành chấp hành nghiêm túc. Ket quả thực hiện đạt và vượt chỉ tiêu kế hoạch nội dung nhiệm vụ. Cả 4 nhóm sản phẩm về giống, qui trình kỹ thuật, mô hình sản xuất và bài báo khoa học đều đạt và vượt kế hoạch. Trong đó, các chỉ tiêu sản phẩm như: “dòng thuần triển vọng“, “giống được bảo hộ“, “bài báo khoa học“ và “quy mô mô hình sản xuất“ vượt chỉ tiêu kế hoạch từ 25-104%. Bên cạnh đó, nhiệm vụ còn hỗ trợ đào tạo một học viên (Võ Minh Thư) thạc sỹ ngành Khoa học cây trồng, tốt nghiệp tháng 12/2023.
Trong thời gian thực hiện mô hình sản xuất giống lúa màu, các dòng giống lúa màu mới như SR20, SR21 và SR22 đã được nhiêu doanh nghiệp và người trồng lúa biết đến. Vì vậy, nhóm nghiên cứu Viện Nghiên cứu Kỹ thuật Nông Nghiệp TP Hồ Chí Minh đã hỗ trợ nguồn vật liệu và qui trình canh tác để những đối tác là các doanh nghiệp có nhu cầu trồng thử nghiệm. Giống lúa SR20 đã thể hiện ưu thế tốt hơn về chất lượng cũng như giá trị canh tác nên một số các cá nhân/ đơn vị kinh doanh gạo đã sản xuất và cho ra được dòng gạo dinh dưỡng bao gồm SR20 hoặc Mắt Rồng. Đối với giống SR21 và SR22 cũng được một vài cá nhân/ tổ chức quan tâm và đầu tư để phát triển dòng gạo dinh dưỡng mới là “gạo tím SR21” và “gạo đen SR22”. Dù giá trị canh tác giống SR21 và SR22 chưa thực sự chiếm nhiều ưu thế như SR20, nhưng đây là các giống lúa có chất lượng và tính khác biệt và khác với các loại gạo màu trên thị trường tiêu dùng hiện nay.
Hình ảnh giống lúa màu SR20 và SR21
Các sản phẩm của nhiệm vụ đã được áp dụng vào thực tiễn
STT |
Tên sản phẩm KHCN |
Tổ chức/cá nhẫn đã sử dụng |
Nơi áp dụng |
Sản phẩm thương mại |
1 |
Giống SR20, SR21, SR22 và qui trình canh tác hướng hữu cơ |
Công ty TNHH-TMDV VietRice (Thủ Đức- TPHCM) Công ty TNHH HĐ Tuệ Hân (Thống Nhất, Đồng Nai) |
Xã Tân Phú Trung, Củ Chi; Ông Phạm Văn Minh xã Trung Lập Thượng, Củ Chi; HTX Hưng Thuận, Trảng Bàng, Tây Ninh; |
Gạo SR20, SR21, SR22 (xát dối) túi 1-5 kg |
2 |
Giống SR20, và qui trình canh tác hướng hữu cơ |
Công ty CP thực phẩm Nhà nông 4,0 |
HTX Hưng Thuận, Trảng Bàng; Ông Phạm Văn Minh xã Trung Lập Thượng |
Gạo Mắt Rồng SR20; xát dối, túi 5 kg |
3 |
Giống SR20, và qui trình canh tác hướng hữu cơ |
Công ty CP sx TN Lúa Vàng Việt-Tây Ninh |
Tây Ninh (HTX Bàu Đồn, HTX Phước Bình) |
Gạo Mắt Rồng; túi 5- 10 kg. |
4 |
Giống SR20, và qui trình canh tác hướng hữu cơ |
HTX Nông nghiệp Tiến Đạt (Vũng Liêm, Vĩnh Long) |
Xã Trung Ngãi, Vũng Liêm, Vĩnh Long |
Túi 1-5 kg; tiêu chuẩn hữu cơ |
5 |
Giống SR20, và qui trình canh tác hướng hữu cơ |
Nông trại Nguyễn Minh Tâm |
Xã Đồng Khỏi, Châu Thành, Tây Ninh |
Gạo đỏ SR20; túi 5- 10 kg, xát dối. |
6 |
Giống SR20, và qui trình canh tác hướng hữu cơ |
Nông trại Nguyễn Thanh Bình. |
Thị trấn Phong Phú, Tây Sơn, Bình Định |
Gạo đỏ SR20; túi 5- 10 kg. |
Kết quả mô hình thí điểm sản xuất giống lúa mới mang lại qua ba vụ Hè Thu 2021 và Đông Xuân 2021-2022, vụ Thu Đông 2022 của các xã Tân Phú Trung, huyện Củ Chi, TPHCM và xã Phước Chỉ, thị xã Trảng Bàng, tỉnh Tây Ninh cho thấy năng suất lúa có thể đạt tương đương tập quán canh tác truyền thồng của nông dân, ngoài ra có thể thay thế 50% đến 100 % hóa chất BVTV bằng chế phẩm sinh học trong phòng trừ sâu bệnh. Tại các xã Tân Phú Trung và Phước Chỉ có các hộ nông dân tham gia, qua quá trình tham gia cho thấy mô hình canh tác đều theo hướng hữu cơ hợp lý và cố định ngay từ đầu vụ sản xuất, mô hình canh tác có thể đem lại thu nhập tốt hơn đối chứng thông qua chi phí cơ hội, đến vụ Đông Xuân, năng suất ruộng mà mô hình mang lại cũng tăng cao với giá thu mua cố định trong khi giá thị trường giảm mạnh so với vụ Hè Thu nên lợi nhuận và tỷ suất lợi nhuận cao hơn vụ Đông Xuân rõ rệt, lãi ròng và lãi gộp của mô hình vượt rõ.
So với kỹ thuật canh tác phổ thông, canh tác theo hướng hữu cơ trên giống lúa màu cho thấy: cây lúa tỷ lệ đẻ nhánh cao, ruộng lúa ít bị sâu bệnh, khi không có sự thay đổi về giá của thị trường phân bón thì phí đầu tư không chênh lệch quá nhiều so với phương pháp canh tác kỹ thuật phổ thông, canh tác theo hướng hữu cơ thường sử dụng và phù hợp với phương pháp gieo bằng máy điều nay mang lại giá trị về mặt sức khỏe, hạn chế sử dụng sức người, mô hình mang lại giá trị trị kinh tế cao cho người dân.
Mô hình sản xuất lúa màu áp dụng công nghệ cao theo qui trình hữu cơ tại Củ Chi, TP HCM
Điểm thử nghiệm Quy trình canh tác hữu cơ giống lúa màu SR20
Kết quả của đề tài nghiên cứu này đã mang lại ý nghĩa quan trọng trong việc tìm ra các giống lúa màu mới, mang lại hiểu suất cao trong canh tác nông nghiệp. Tạo tiền đề cho việc phát triển nguồn lúa màu mới, tăng năng suất cho người dân khi canh tác. Ngoài ra, khi triển khai những mô hình trên, năng suất, chất lượng và lợi nhuận đều được nâng cao so với sản xuất truyền thống. Đây cũng là một trong những mục tiêu phát triển được ngành nông nghiệp hướng tới, tạo bước tiến mới cho ngành nông nghiệp tại vùng Đông Nam Bộ nói riêng và trên cả nước nói chung. Chính vì vậy nhóm nghiên cứu kiến nghị, tiếp tục thực hiện các hoạt động chọn lọc, khảo nghiệm và công nhận lưu hành đối với các dòng/giống lúa màu triển vọng. Nhân rộng mô hình sản xuất giống lúa màu và áp dụng quy trình canh tác hướng hữu cơ và công nghệ cao để có đóng góp thiết thực, hiệu quả hơn trong sản xuất.
Thông tin liên hệ Viện Khoa Học Kỹ Thuật Nông Nghiệp Miền Nam Địa chỉ: 121 Nguyễn Bỉnh Khiêm, P. Đakao, Quận 1, TP.HCM Điện thoại: 028. 38234076 – 38228371 Email: iasvn@vnn.vn Website: http://iasvn.org |
Ngày 10/9/2012, Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam Nguyễn Phú Trọng đã có chuyến thăm và làm việc với Bộ Khoa học và Công nghệ (KH&CN) xem xét tình hình thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI và việc chuẩn...
Toàn cảnh buổi làm việc (Ảnh: Ngũ Hiệp)
Cùng dự buổi làm việc với với Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng có đồng chí Nguyễn Thiện Nhân, Ủy viên Ban chấp hành Trung ương Đảng, Phó Thủ tướng Chính phủ; đồng chí Nguyễn Quân, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bộ trưởng Bộ KH&CN; đồng chí Hoàng Văn Phong, nguyên Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Phái viên Tư vấn cho Thủ tướng Chính phủ về KH&CN, Chủ tịch Hội đồng Chính sách KH&CN Quốc gia cùng lãnh đạo các cơ quan Ban Đảng Trung ương, các Bộ, ban, ngành.
Tại buổi làm việc, Bộ trưởng Bộ KH&CN Nguyễn Quân đã báo cáo tình hình hoạt động KH&CN thời gian qua theo tinh thần Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc (Khóa XI) và Chương trình, kế hoạch công tác của Chính phủ. Theo đó, hoạt động của ngành KH&CN nói chung và của Bộ KH&CN nói riêng trong những năm qua tập trung vào thực hiện Chiến lược phát triển KH&CN. Các định hướng, nội dung, nhiệm vụ KH&CN đã bám sát Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước và Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI. Kết quả hoạt động KH&CN đã đáp ứng tốt và kịp thời hơn nhu cầu phát triển kinh tế xã hội, nhất là phục vụ trực tiếp quá trình chuyển đổi cơ cấu kinh tế và hội nhập quốc tế trong bối cảnh kinh tế thế giới và đất nước đang gặp nhiều khó khăn, thách thức.
Triển khai các chủ trương, đường lối của Đảng về phát triển KH&CN, từ năm 2000, Bộ KH&CN đã tập trung xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật về KH&CN với 8 đạo luật chuyên ngành và gần 300 văn bản hướng dẫn thi hành, điều chỉnh toàn diện các lĩnh vực sở hữu trí tuệ, chuyển giao công nghệ, công nghệ cao, năng lượng nguyên tử, tiêu chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật, chất lượng sản phẩm, hàng hóa và đo lường. Hệ thống pháp luật đã tạo thuận lợi cho các nhà khoa học, doanh nhân, người quản lý,… tham gia tích cực vào hoạt động sáng tạo, đồng thời tạo động lực cho KH&CN phát triển và góp phần đàm phán thành công gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO).
Xuất phát từ các đề tài, dự án KH&CN do Nhà nước đầu tư, rất nhiều kết quả nghiên cứu đã được ứng dụng vào đời sống, sản xuất, kinh doanh, đem lại hiệu quả kinh tế lớn. Năm 2011 đánh dấu sự đầu tư hiệu quả của Nhà nước thông qua Dự án quy mô lớn Chế tạo giàn khoan tự nâng 90m nước; kết quả nghiên cứu công nghệ sản xuất xăng sinh học và dầu diezen sinh học đã được chuyển giao cho các doanh nghiệp đầu tư xây dựng nhà máy sản xuất các nhiên liệu này; lần đầu tiên Việt Nam tự thiết kế, chế tạo thành công máy biến áp điện lực 3 pha 500 kV - 3x150 MVA với chất lượng tương đương của Châu Âu. Đồng thời, đánh dấu sự thành công của các nhà nghiên cứu khi làm chủ công nghệ và sản xuất được các chip bán dẫn, thẻ và đầu đọc có khả năng ứng dụng cao; sáng tạo ra các phần mềm an toàn, an ninh mạng;…
Tại buổi làm việc, các đại biểu đã tập trung đánh giá thành tựu, kết quả nổi bật, cũng như những khó khăn, tồn tại, hạn chế trong hoạt động KH&CN. Đồng thời xác định rõ những công việc cần tiến hành trong thời gian tới, để tiếp tục đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động KH&CN. Các đại biểu cho rằng, cần tiếp tục đổi mới mạnh mẽ hơn nữa nhận thức về KH&CN và giáo dục đào tạo, phải coi KH&CN là sức mạnh của kinh tế; cơ chế chính sách là vấn đề cốt lõi nhất để phát triển KH&CN; cần khắc phục sự xói mòn tâm huyết và cống hiến của các nhà khoa học; chú trọng đào tạo, nâng cao trình độ đội ngũ cán bộ KH&CN; tạo môi trường thuận lợi, có cơ chế chính sách đồng bộ, đủ mạnh, phù hợp với đặc thù của hoạt động KH&CN để phát huy hơn nữa tài năng, trí tuệ của đội ngũ các nhà khoa học, khắc phục tình trạng hành chính hóa trong hoạt động KH&CN;…
Phát biểu tham luận tại buổi làm việc, nguyên Bộ trưởng Bộ KH&CN Hoàng Văn Phong cho rằng, thành tựu KH&CN của nước ta không hề nhỏ. Nếu nhìn ngang, không nước nào có thu nhập bình quân đầu người ở mức 1.000 – 1.500 USD/người/năm có được những kết quả nghiên cứu và thành tựu KH&CN như nước ta hiện nay. Nhiều tổ chức nước ngoài đã đánh giá, riêng đối với ngành nông nghiệp, KH&CN đóng góp 35% vào thành tựu của ngành này. Việt Nam hiện là chuyên gia hàng đầu của ngành nông nghiệp đối với Châu Phi và Nam Mỹ. Tuy nhiên, KH&CN chưa đạt được vai trò là động lực then chốt. KH&CN cần trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp và có vai trò dẫn dắt toàn bộ nền kinh tế của đất nước phát triển. Việc phân bổ Ngân sách Nhà nước dành cho KH&CN còn dàn trải. Trong thời gian tới, để KH&CN phát triển cần tập trung vào hai điểm mấu chốt: thay đổi chính sách đầu tư và cơ chế tài chính cho hoạt động KH&CN; sử dụng cán bộ KH&CN và trọng dụng người tài.
Đánh giá về những thành công trong hoạt động KH&CN thời gian qua, Phó Thủ tướng Nguyễn Thiện Nhân cho rằng, cơ chế quản lý hoạt động KH&CN đã chuyển biến tích cực trong việc xác định các nhiệm vụ khoa học từ chỗ chủ yếu do giới khoa học đề xuất đến kết hợp nhu cầu thực tiễn và đặt hàng của quản lý nhà nước. Về vấn đề cơ chế tài chính, hiện cơ chế chuyển từ giám sát các định mức theo đầu vào sang căn cứ vào hiệu quả lũy tiến đầu ra để chọn đề tài cũng đang được thực hiện. Hoạt động của các đơn vị sự nghiệp đã chuyển đổi mạnh mẽ theo tinh thần tự chủ, tự chịu trách nhiệm. Thị trường KH&CN tuy còn mới nhưng 10 năm qua đã có nhiều chuyển biến, hoạt động giao dịch của quốc gia, địa phương đã trở thành định kỳ, mặc dù chủ yếu vẫn là giao dịch sản phẩm.
Theo Phó Thủ tướng, KH&CN và giáo dục đào tạo chưa trở thành cấu phần trong các hoạt động của ngành, địa phương. Trong hoạt động xây dựng kế hoạch của ngành, địa phương chưa có cấu phần kế hoạch KH&CN đi cùng. Kế hoạch hoạt động của các ngành cũng chưa kèm theo kế hoạch phát triển KH&CN. Cần đầu tư xây dựng kế hoạch KH&CN 5 năm trên cơ sở kế hoạch 10 năm của các ngành, địa phương. Đây là công cụ để xây dựng mô hình phát triển mới mà ở đó, vai trò người đứng đầu rất quan trọng. Các bộ trưởng cần đặt hàng KH&CN phải làm gì cho ngành phát triển và lãnh đạo tỉnh phải đặt hàng KH&CN làm gì cho địa phương. Hiện Bộ KH&CN đang cụ thể hóa vấn đề này. Về vấn đề chọn và đánh giá sản phẩm, cần chuyển căn cứ từ định mức đầu vào sang hiệu quả đầu ra và trách nhiệm người làm đề tài. Ngân sách xây dựng cơ bản, ngân sách thường xuyên thì làm theo chu kỳ kế hoạch. Ngân sách cho nghiên cứu khoa học thì duyệt xong đề tài, dự án lúc nào cấp tiền lúc đấy. Cùng với đó, ngành KH&CN cần đẩy mạnh quy hoạch nhân lực KH&CN. Cần tập trung ưu đãi cho 3 đối tượng: cán bộ KH&CN đầu đàn; người phụ trách đề tài, đề án cấp quốc gia; cán bộ KH&CN trẻ xuất sắc. Ngành KH&CN cần hoàn chỉnh quy hoạch hệ thống mạng lưới nghiên cứu khoa học. Trong đó, coi các trường đại học là cấu thành của hệ thống KH&CN cả nước, xây dựng các trung tâm xuất sắc làm nòng cốt cho từng nhóm nội dung nghiên cứu. Cùng với đó, triển khai các hợp tác KH&CN có tầm quốc gia, thực hiện nhiệm vụ hợp tác quốc tế để giải quyết nhiệm vụ quốc gia, hợp tác với các nước mạnh về KH&CN; làm rõ vốn dành cho nghiên cứu ứng dụng; đẩy mạnh phát triển thị trường KH&CN;…
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng phát biểu tại buổi làm việc (Ảnh: Ngũ Hiệp)
Phát biểu kết luận buổi làm việc, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng hoan nghênh và đánh giá cao các đồng chí lãnh đạo Bộ KH&CN cùng các đơn vị đã chuẩn bị tốt báo cáo cho buổi làm việc này. Báo cáo được trình bày rất nghiêm túc, công phu, thẳng thắn, trách nhiệm, phân tích cả những mặt được, chưa được, nguyên nhân và kiến nghị phương hướng, giải pháp sắp tới.
Tổng Bí thư cho rằng, thời gian qua mặc dù điều kiện kinh tế tài chính có hạn, điểm xuất phát thấp nhưng hoạt động KH&CN đã đạt được những thành tựu rất đáng tự hào. Những thành tựu KH&CN bao gồm cả khoa học xã hội, khoa học tự nhiên, khoa học kỹ thuật, KH&CN, nghiên cứu cơ bản, nghiên cứu ứng dụng,... đã đóng góp quan trọng vào công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước. Đường lối, chính sách, luật pháp..., những luận điểm cơ bản, con đường phát triển đi lên của đất nước được vạch rõ trong các văn kiện của Đảng, Cương lĩnh xây dựng đất nước, Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội các giai đoạn,... đều phải dựa trên những luận cứ khoa học và thực tiễn. Trước đây nước ta dân ít, ruộng nhiều, nhưng làm không đủ ăn. Bây giờ ruộng đất thu hẹp lại, dân đông hơn (86,7 triệu người), nhưng không những đủ lương thực, mà còn xuất khẩu 7 triệu tấn gạo/năm. Vẫn con người ấy, đồng ruộng ấy, kết quả ấy có được rõ ràng là nhờ KH&CN. Xuất khẩu cà phê, hạt điều..., những thành tựu nghiên cứu ứng dụng trong lĩnh vực y tế, công nghiệp, xây dựng,… biết bao công trình đã được xây dựng, đi vào vận hành, phục vụ hiệu quả sản xuất và đời sống của nhân dân, làm thay đổi bộ mặt đất nước. Trình độ dân trí không ngừng được nâng lên. Ngành KH&CN cần tổng kết lại những kết quả đã đạt được, tiếp tục phát huy thành tựu và kinh nghiệm rút ra trong quá trình phát triển, khắc phục những hạn chế, yếu kém để tập trung phát triển KH&CN hơn nữa.
Tổng Bí thư đã nhấn mạnh 7 nội dung ngành KH&CN cần tập trung thực hiện trong thời gian tới. Cụ thể:
Thứ nhất, cần tiếp tục đổi mới mạnh mẽ hơn nữa nhận thức, tư duy về KH&CN trong điều kiện mới.
Thứ hai, đổi mới mạnh mẽ hơn nữa cơ chế chính sách để phát triển KH&CN. Đây là điểm mấu chốt. Cơ chế chính sách bao gồm chính sách đầu tư, cơ chế tài chính, giao kế hoạch, đặt hàng, khoán sản phẩm,… Trong đó, cần nhấn mạnh đổi mới cơ chế tài chính sao cho tập trung được mọi nguồn lực trong nước và nước ngoài.
Thứ ba, đổi mới hệ thống tổ chức làm công tác nghiên cứu triển khai thực hiện nhiệm vụ KH&CN, bao gồm mạng lưới các tổ chức nghiên cứu, doanh nghiệp làm KH&CN cho phù hợp điều kiện kinh tế thị trường.
Thứ tư, đổi mới công tác quản lý, làm sao để phát huy thế mạnh nguồn nhân lực, khuyến khích người tài, tạo môi trường dân chủ và thuận lợi cho cán bộ KH&CN yên tâm công tác. Trong đó, đặc biệt nhấn mạnh đến vai trò của Bộ KH&CN.
Thứ năm, đẩy mạnh công tác đào tạo, bồi dưỡng, xây dựng đội ngũ cán bộ làm công tác KH&CN, sử dụng cán bộ KH&CN hiện có và có chính sách trọng dụng người tài. Đào tạo nhân lực một số ngành mũi nhọn, lĩnh vực trọng điểm và có chính sách tôn vinh cán bộ KH&CN. Nên chọn một ngày là Ngày KH&CN.
Thứ sáu, phối hợp với các cơ quan, các ngành, các cấp kịp thời và nhịp nhàng hơn, làm các ngành hiểu chúng ta hơn.
Cuối cùng, Tổng Bí thư lưu ý Bộ KH&CN cần hết sức quan tâm chăm lo công tác xây dựng Đảng, xây dựng con người, tổ chức, thực hiện tốt các nghị quyết của Đảng, trong đó có Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) về một số vấn đề cấp bách trong xây dựng Đảng hiện nay, coi đây là nhân tố hết sức then chốt để bảo đảm hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.
Thay mặt lãnh đạo và cán bộ của Bộ KH&CN, Bộ trưởng Nguyễn Quân bày tỏ sự vui mừng được đón Tổng Bí Thư Nguyễn Phú Trọng, Phó Thủ tướng Nguyễn Thiện Nhân và lãnh đạo các Ban Đảng Trung ương, các Bộ, ban, ngành; được nghe các ý kiến góp ý tâm huyết, thẳng thắn về công tác quản lý KH&CN và các hoạt động khác của ngành KH&CN, đặc biệt là đánh giá của Tổng Bí thư về kết quả hoạt động KH&CN thời gian vừa qua. Những ý kiến chỉ đạo của Tổng Bí thư thực sự rất quan trọng để ngành có thể đổi mới thực sự theo tinh thần của Đề án mà Chính phủ đã giao là đổi mới cơ bản, toàn diện và đồng bộ tổ chức, cơ chế quản lý, cơ chế hoạt động KH&CN. Với tâm huyết và sự ủng hộ của các đại biểu, các bộ ban, ngành, hy vọng Bộ KH&CN sẽ có nhiều đóng góp mới, đáp ứng được sự kỳ vọng của Đảng, Nhà nước và nhân dân trong thời gian tới.
Nhân chuyến thăm và làm việc, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, Phó Thủ tướng Nguyễn Thiện Nhân, Bộ trưởng Nguyễn Quân đã cùng trồng cây lưu niệm tại trụ sở Bộ KH&CN.
Ngày 12/7/2024, Sở Khoa học và Công nghệ TP.HCM tổ chức hội thảo khoa học “Phát huy vai trò của đội ngũ trí thức đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước nhanh và bền vững trong giai đoạn mới” và “Phát triển khoa học và công nghệ phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế”. Hội thảo nhằm tiếp nhận thêm các ý kiến để hoàn thiện các dự thảo Kế hoạch triển khai 2 Chương trình hành động (số 49-CTrHĐ/TU và số 54-CTrHĐ/TU).
Phát biểu khai mạc hội thảo, ông Lê Thanh Minh (Phó Giám đốc Sở Khoa học và Công nghệ TP.HCM) cho biết nhờ cơ chế, chính sách về khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo ngày càng hoàn thiện, TP.HCM trở thành trung tâm thương mại, dịch vụ, công nghiệp công nghệ cao, nghiên cứu, đổi mới và chuyển giao công nghệ của khu vực phía Nam nói riêng và cả nước nói chung. Trong đó, Thành phố ghi nhận sự cống hiến của các chuyên gia, nhà khoa học, đội ngũ trí thức đã đóng góp các công trình, kết quả nghiên cứu phục vụ sản xuất kinh doanh, hiến kế cho lãnh đạo Thành phố trong xây dựng, hoạch định các chủ trương, chính sách phát triển của Thành phố. Thành phố mong muốn có thêm các giải pháp, cách thức nhằm phát huy vai trò trí thức khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo phục vụ phát triển kinh tế xã hội.
Ông Lê Thanh Minh (Phó Giám đốc Sở Khoa học và Công nghệ TP.HCM) phát biểu khai mạc hội thảo
Kế hoạch triển khai Chương trình hành động số 49-CTrHĐ/TU (dự thảo) hướng đến mục tiêu xây dựng đội ngũ trí thức vững mạnh toàn diện, không ngừng phấn đấu nâng cao phẩm chất chính trị, đạo đức, năng lực, trình độ; qua đó, tiên phong tạo ra sản phẩm trí tuệ, đóng góp tích cực cho sự phát triển của Thành phố. Theo đó, TP.HCM sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho trí thức là chuyên gia, nhà khoa học tham gia thực hiện Đề án xây dựng cơ chế thúc đẩy để hình thành và phát triển trung tâm nghiên cứu đạt chuẩn quốc tế (COE), triển khai nghiên cứu, ứng dụng khoa học - công nghệ trong những ngành, lĩnh vực, sản phẩm chủ yếu phục vụ phát triển kinh tế - xã hội Thành phố (như lĩnh vực ứng dụng trí tuệ nhân tạo (AI), công nghệ 5G và sau 5G, robot, công nghệ sinh học, in 3D, Internet vạn vật, vật liệu mới và công nghệ mới;…) và nghiên cứu các vấn đề cơ bản, bức xúc của thành phố để làm cơ sở khoa học cho việc hoạch định chính sách phát triển kinh tế - xã hội - văn hóa, xây dựng hệ thống chính trị. Đồng thời, đẩy mạnh thu hút nguồn lực trí thức khoa học kiều bào tham gia đóng góp thiết thực vào lĩnh vực khoa học - công nghệ, nhất là những lĩnh vực mới, quan trọng; hình thành các nhóm chuyên gia về dịch vụ khoa học và công nghệ nhằm hỗ trợ tư vấn trong lĩnh vực công nghệ thông tin, môi trường, vật liệu mới thúc đẩy hoạt động nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ và đổi mới sáng tạo, thương mại hóa kết quả nghiên cứu. Tăng cường hợp tác với trí thức người Việt Nam sinh sống, làm việc ở nước ngoài, trí thức người nước ngoài trong chuyển giao, phát triển khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo, nhất là những lĩnh vực mới, quan trọng, góp phần thúc đẩy quá trình xây dựng và phát triển Thành phố.
Bà Nguyễn Thị Thu Sương (Q. Trưởng phòng Quản lý khoa học - Sở Khoa học và Công nghệ TP.HCM) báo cáo tham luận “Đóng góp của đội ngũ trí thức trong phát triển khoa học và công nghệ phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa trên địa bàn thành phố”
Kế hoạch triển khai Chương trình hành động số 54-CTrHĐ/TU (dự thảo) hướng đến mục tiêu thúc đẩy ứng dụng nền tảng công nghệ trong xây dựng và phát triển hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo có trọng tâm, trọng điểm, tạo lợi thế cạnh tranh trong khu vực và quốc tế, khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo được phát triển vững chắc, thực sự trở thành động lực tăng trưởng kinh tế - xã hội. Dự kiến TP.HCM sẽ triển khai 6 nhiệm vụ và giải pháp gồm: Truyền thông nâng cao nhận thức về phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo; Đổi mới tư duy, tiếp tục xây dựng và triển khai cơ chế, chính sách, pháp luật, nâng cao vai trò quản lý nhà nước về khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo; Nâng cao tiềm lực khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo; Phát triển hệ thống đổi mới sáng tạo quốc gia, hệ sinh thái khởi nghiệp sáng tạo; Thúc đẩy phát triển thị trường khoa học và công nghệ; Hợp tác, hội nhập quốc tế về khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo.
Hoàng Kim (CESTI)
Toàn cảnh Hội nghị.
Phát biểu khai mạc Hội nghị, bà Nguyễn Thị Kim Huệ (Phó Giám đốc Sở Khoa học và Công nghệ TP.HCM) nhận định, trong bối cảnh hội nhập và toàn cầu hóa, việc đầu tư, sử dụng hiệu quả các nguồn lực cho khoa học và công nghệ (KH&CN) trở thành một trong những yếu tố then chốt để phát triển kinh tế xã hội, nâng cao chất lượng cuộc sống. Qua Hội nghị “Quỹ phát triển khoa học và công nghệ của doanh nghiệp - Động lực thúc đẩy đầu tư cho khoa học và công nghệ” lần này, Sở mong muốn nhận được nhiều trao đổi, ý kiến đóng góp từ cấp lãnh đạo, nhà quản lý, nhà khoa học để tiếp tục hoàn thiện mô hình tổ chức và hoạt động của Quỹ phát triển khoa học và công nghệ của doanh nghiệp, hoàn thiện về quy định quản lý, cải thiện việc triển khai các chương trình tài trợ, hỗ trợ nghiên cứu nhằm phục vụ hiệu quả công tác nghiên cứu KH&CN.
Bà Nguyễn Thị Kim Huệ (Phó Giám đốc Sở Khoa học và Công nghệ TP.HCM) phát biểu khai mạc Hội nghị.
Theo ông Phan Quốc Tuấn (Phó Trưởng phòng - Phòng Quản lý Công nghệ và Thị trường Công nghệ, Sở Khoa học và Công nghệ TP.HCM), việc tăng cường tư vấn, khuyến khích doanh nghiệp thành lập Quỹ phát triển khoa học và công nghệ là một trong những chính sách đang được Chính phủ quan tâm, nhằm mục đích khích lệ cộng đồng doanh nghiệp tham gia đầu tư, nghiên cứu, cải tiến quy trình, hợp lý hóa sản xuất, nâng cao năng lực cạnh tranh. Tại TP.HCM, Quỹ phát triển khoa học và công nghệ của doanh nghiệp được thành lập với mục tiêu: thông qua nguồn tài chính thúc đẩy các hoạt động nghiên cứu và phát triển, giúp doanh nghiệp tạo ra sản phẩm, dịch vụ mới, cải tiến công nghệ, quy trình sản xuất; hỗ trợ đầu tư vào các dự án khởi nghiệp sáng tạo, từ đó nâng cao năng lực cạnh tranh và tạo ra các giá trị mới cho thị trường; hỗ trợ việc đào tạo, phát triển nhân lực chuyên môn, giúp nâng cao trình độ và kỹ năng của người lao động; cải thiện hiệu quả sản xuất, giảm chi phí, nâng cao chất lượng sản phẩm và dịch vụ.
Ông Phan Quốc Tuấn (Phó Trưởng phòng - Phòng Quản lý Công nghệ và Thị trường Công nghệ) trình bày báo cáo tại Hội nghị.
Quỹ phát triển khoa học và công nghệ của doanh nghiệp được sử dụng chi cho những nội dung: trang bị cơ sở vật chất - kỹ thuật cho hoạt động KH&CN của doanh nghiệp, mua quyền sử dụng, quyền sở hữu công nghệ, kiến thức kỹ thuật về công nghệ, mua máy móc, thiết bị để đổi mới công nghệ, phục vụ trực tiếp hoạt động sản xuất, kinh doanh, trả lương, chi thuê chuyên gia hoặc hợp đồng với tổ chức KH&CN trong và ngoài nước để thực hiện các hoạt động KH&CN của doanh nghiệp. Bên cạnh đó, Quỹ được chi cho hoạt động sáng kiến, chi vào việc thực hiện hoạt động chuyển giao, thực hiện nhiệm vụ, đào tạo nhân lực KH&CN của doanh nghiệp; hoạt động hợp tác về KH&CN, đánh giá, thử nghiệm, giám định, kiểm định, quảng bá, thương mại hóa sản phẩm mới, công nghệ mới, chi tài trợ, hỗ trợ kinh phí thực hiện các nhiệm vụ thuộc Đề án “Hỗ trợ hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo quốc gia đến năm 2025”.
Ông Tuấn cho biết, hiện có khoảng 127 doanh nghiệp đã thành lập Quỹ với tổng số tiền trích Quỹ hơn 6.020 tỷ đồng, số tiền chi sử dụng Quỹ hơn 2.108 tỷ đồng. Bên cạnh đó, có 21 doanh nghiệp điều chuyển về Quỹ phát triển khoa học và công nghệ Thành phố với tổng số tiền 93,5 tỷ đồng. Những số liệu này cho thấy, Quỹ phát triển khoa học và công nghệ chưa phát huy được tối đa tiềm năng và lợi ích cho doanh nghiệp trên địa bàn Thành phố. Ðây cũng là rào cản lớn cho việc nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp, cũng như cải thiện chất lượng tăng trưởng kinh tế quốc gia.
Trong khuôn khổ sự kiện, các đại biểu tham dự đã trao đổi một số vấn đề như: cụ thể hóa những nội dung chi cho chuyển đổi số, chuyển đổi xanh; làm rõ điểm khác nhau giữa Thông tư 05/2022/TT-BKHCN ngày 31 tháng 5 năm 2022 của Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ và Thông tư 67/2022/TTLT-BTC ngày 07/11/2022 của Bộ trưởng Bộ Tài chính; hướng dẫn trường hợp doanh nghiệp Nhà nước sử dụng Quỹ để đầu tư, đối ứng vốn đầu tư cho khởi nghiệp đổi mới sáng tạo; hướng dẫn cách xác định phần giá trị còn lại của tài sản và thành phần hồ sơ khi chuyển giao; quy chế KH&CN, quy chế chi tiêu; trình tự và thủ tục chi của Quỹ phát triển khoa học và công nghệ địa phương khi có yêu cầu của doanh nghiệp. Đồng thời, phân tích những nguyên nhân dẫn đến việc nhiều doanh nghiệp chưa mạnh dạn thành lập Quỹ. Nhiều ý kiến cho rằng, một phần do việc chưa nắm được thủ tục thanh quyết toán tài chính khi sử dụng Quỹ, phân bổ nguồn lực chưa hợp lý, thiếu liên kết giữa các bên liên quan, hạn chế trong việc đánh giá và giám sát sử dụng Quỹ phát triển khoa học và công nghệ của doanh nghiệp dẫn đến việc chưa phát huy được tối đa tiềm năng và lợi ích mà Quỹ mang lại.
Bà Mạnh Thị Tuyết Mai (Phó Vụ trưởng Vụ Chính sách, Tổng cục Thuế) trình bày nội dung Thông tư 67/2022/TTLT-BTC ngày 07/11/2022 của Bộ trưởng Bộ Tài chính về “Hướng dẫn về nghĩa vụ thuế khi doanh nghiệp trích lập và sử dụng Quỹ phát triển khoa học và công nghệ của doanh nghiệp”.
Ðể khai thông nguồn vốn của doanh nghiệp đầu tư cho KH&CN, một số ý kiến cho rằng cần sớm sửa đổi, bổ sung các quy định về tổ chức và hoạt động của Quỹ phát triển khoa học và công nghệ của doanh nghiệp sao cho phù hợp với quy định hiện hành cũng như thực tế hoạt động của doanh nghiệp; ban hành sửa đổi, bổ sung các quy định về chế độ kế toán, quản lý tài chính doanh nghiệp, thuế có liên quan đến Quỹ phát triển khoa học và công nghệ trong doanh nghiệp; Nhà nước cần sớm ban hành các quy định xác lập cơ chế quản lý đối với hoạt động của Quỹ, xây dựng hệ thống tiêu chí đánh giá hiệu quả sử dụng của Quỹ phát triển khoa học và công nghệ trong doanh nghiệp…
Ông Nguyễn Nam Hải (Vụ trưởng Vụ Kế hoạch - Tài chính, Bộ Khoa học và Công nghệ) giải đáp thắc mắc của các đại biểu trong phiên thảo luận tại Hội nghị.
Được biết, thời gian tới, Sở Khoa học và Công nghệ TP.HCM sẽ tiếp tục chuyển đổi số mạnh mẽ công tác quản lý, đơn giản hóa thủ tục hành chính, tạo thuận lợi cho các cá nhân và tổ chức hoạt động trong lĩnh vực KH&CN. Đồng thời, khẩn trương nghiên cứu, đề xuất hoàn thiện hành lang pháp lý, tháo gỡ vướng mắc để có thể vận hành các Quỹ phát triển khoa học và công nghệ của doanh nghiệp một cách hiệu quả, thu hút và tiếp nhận được nguồn kinh phí cả từ trong và ngoài ngân sách Nhà nước, vừa đáp ứng được đặc thù của hoạt động triển khai nghiên cứu KH&CN, vừa đảm bảo hiệu quả tài trợ, hỗ trợ. Từ đó, tạo tiền đề để Sở tham mưu cho Ban cán sự Đảng của Bộ Khoa học và Công nghệ cũng như Thành ủy TP.HCM trong việc xây dựng đề án thí điểm Quỹ phát triển khoa học và công nghệ tại TP.HCM, dự kiến trình thông qua vào quý 4 năm nay.
Minh Nhã (CESTI)
Ngày 11/7/2024, Sở Khoa học và Công nghệ TP.HCM phối hợp cùng Trung tâm Đổi mới Kinh tế Sáng tạo Jeonbuk (JBCCEI), Trung tâm Xúc tiến Thương mại Hàn Việt (KORETOVIET) và Công ty TNHH JYGLOBAL tổ chức Lễ công bố Ngày hội Xúc tiến Giao thương - Cánh cửa Kết nối Thị trường Hàn - Việt (Mega Us Expo 2024).
Phát biểu tại Lễ công bố, ông Nguyễn Việt Dũng (Giám đốc Sở Khoa học và Công nghệ TP.HCM) cho biết ở lần thứ 3 được tổ chức, Mega Us Expo 2024 có quy mô lớn nhất từ trước đến nay với hơn 200 gian hàng về công nghệ, nội dung số, mỹ phẩm, thực phẩm chức năng… Ngày hội lần này không chỉ hợp tác giao thương mà còn thúc đẩy học hỏi lẫn nhau về kỹ năng và tinh thần đổi mới sáng tạo, gắn kết tình hữu nghị và xây dựng hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo Việt Nam – Hàn Quốc.
Ông Nguyễn Việt Dũng (Giám đốc Sở Khoa học và Công nghệ TP.HCM) Phát biểu tại Lễ công bố Mega Us Expo 2024
Được tổ chức định kỳ mỗi năm một lần tại TP.HCM, Mega Us Expo là một trong những hoạt động hợp tác hỗ trợ khởi nghiệp đổi mới sáng tạo, xúc tiến mở rộng thị trường cho doanh nghiệp Việt – Hàn nhằm tăng cường hoạt động hợp tác thúc đẩy doanh nghiệp khởi nghiệp đổi mới sáng tạo hai nước ra thị trường. Ngày hội cũng thúc đẩy tinh thần doanh nhân cho sinh viên Việt Nam; tăng cường hoạt động hỗ trợ doanh nghiệp Thành phố nói riêng và Việt Nam nói chung, tìm kiếm, ứng dụng công nghệ từ Hàn Quốc phục vụ vào việc sản xuất; hình thành chương trình hợp tác chung trong hoạt động ươm tạo dự án, doanh nghiệp khởi nghiệp.
Ông Nguyễn Minh Hiếu (Phó Giám đốc Saigon Innovation Hub) thông tin về các hoạt động hỗ trợ khởi nghiệp đổi mới sáng tạo
Năm nay, Mega Us Expo 2024 đề cao tinh thần khởi nghiệp, tinh thần sáng tạo của giới trẻ thông qua các hoạt động như Cuộc thi Ý tưởng Khởi nghiệp Sinh viên (Univ.Star 2024), Chương trình Startup thuyết trình gọi vốn trước các quỹ đầu tư trong và ngoài nước (Venture.Star). Ngày hội sẽ diễn ra vào ngày 22-24/8/2024 tại Trung tâm hội nghị White Palace (TP.HCM) với sự tham gia của hơn 30 Trung tâm/tổ chức hỗ trợ khởi nghiệp đổi mới sáng tạo, các trường đại học, các cơ quan quản lý nhà nước về doanh nghiệp và khởi nghiệp đổi mới sáng tạo đến từ Hàn Quốc cùng các Hội, Hiệp Hội, tổ chức hỗ trợ khởi nghiệp đổi mới sáng tạo và doanh nghiệp Việt Nam. Mega Us Expo 2024 dự kiến thu hút 5.000 khách tham quan và tạo nên 1.500 lượt gặp gỡ doanh nghiệp (B2B matching).
Hoàng Kim (CESTI)
Đây là nhiệm vụ thuộc Đề án tổng thể đào tạo nhân lực trình độ quốc tế (gồm 8 ngành: công nghệ thông tin - truyền thông, cơ khí - tự động hóa, trí tuệ nhân tạo, quản trị doanh nghiệp, tài chính - ngân hàng, y tế, du lịch, quản lý đô thị) được ban hành theo Quyết định số 2426/QĐ-UBND ngày 05 tháng 7 năm 2021 của Ủy ban nhân dân TP.HCM.
Theo Đề án tổng thể đào tạo nhân lực trình độ quốc tế, hai đặc trưng quan trọng giúp nhận dạng nhân lực trình độ quốc tế là đáp ứng yêu cầu việc làm có tính quốc tế sau khi được đào tạo và sử dụng ngoại ngữ thành thạo trong môi trường quốc tế.
TP.HCM hiện là trung tâm đào tạo nguồn nhân lực của cả nước và hoàn toàn có thể trở thành trung tâm đào tạo nguồn nhân lực quốc tế nếu các cơ sở đào tạo cùng chuyển biến mạnh mẽ hơn nữa theo hướng quốc tế hóa và hiện đại hóa. Bên cạnh đó, với xu thế phát triển và hội nhập ngành y tế của TP.HCM nói riêng cần phải hiện đại hóa nhanh chóng cho phù hợp với tình hình bệnh tật có nhiều thay đổi. Để đáp ứng yêu cầu này cần phải có một đội ngũ cán bộ y tế được trang bị đầy đủ kiến thức, kỹ năng nhằm góp phần vào việc chăm sóc, dự phòng, điều trị nâng cao sức khỏe cho nhân dân.
Do vậy, nhiệm vụ được thực hiện với mục tiêu chung là nghiên cứu về đào tạo nhân lực bậc đại học có trình độ quốc tế đổi với ngành y tế tại TP.HCM giai đoạn 2022 - 2035. Dữ liệu đạt được từ nghiên cứu này sẽ là nền tảng để đề án đưa ra các đề xuất giải pháp khả thi mang tính chiến lược tổng thể nhằm đào tạo được nguồn nhân lực trình độ quốc tế khối ngành sức khỏe của TP.HCM.
Báo cáo trước Hội đồng tư vấn nghiệm thu, TS. BS. Phan Nguyễn Thanh Vân cho biết, có tất cả 43 nội dung công việc đã được triển khai thực hiện, phân bố theo 5 mục tiêu cụ thể của nhiệm vụ: (1) khảo sát nhu cầu đào tạo nhân lực trình độ quốc tế ngành y tế của TP.HCM giai đoạn 2022 – 2035; (2) khảo sát thực trạng các chương trình đào tạo thuộc ngành y tế đạt chuẩn kiểm định bởi tổ chức quốc tế hiện nay; (3) khảo sát và đánh giá năng lực của giảng viên ngành y tế đáp ứng năng lực hội nhập quốc tế; (4) đối sánh các chương trình đào tạo đạt chuẩn kiểm định bởi tổ chức quốc tế và các chương trình đào tạo chưa kiểm định; (5) đề xuất giải pháp đào tạo nhân lực trình độ quốc tế ngành y tế của TP.HCM giai đoạn 2022 - 2035. Kết quả nhiệm vụ cũng hoàn thành 11 sản phẩm, trong đó 7 sản phẩm là các báo cáo (đã báo cáo tại Hội nghị Khoa học Công nghệ lần thứ 17 của Trường Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch ngày 16/5/2024) và 4 sản phẩm là các bài báo khoa học đăng trên Tạp chí trong danh mục tạp chí của hội đồng chức danh giáo sư Nhà nước.
Đối với mục tiêu cụ thể (1), kết quả cho thấy, hiện có nhu cầu cần thiết đối với nguồn nhân lực y tế trình độ quốc tế. Nhu cầu đạt mức cao (trên 50%) đối với tất cả các góc độ bao gồm cho bản thân, cho người thân, mức độ mong muốn trải nghiệm, sẵn sàng giới thiệu, và nhu cầu thị trường. Các ngành nghề có nhu cầu cao nhất lần lượt là bác sĩ, điều dưỡng/hộ sinh và kỹ thuật viên y tế.
Ở mục tiêu cụ thể (2), kết quả khảo sát thực trạng các chương trình đào tạo thuộc ngành y tế đạt chuẩn kiểm định bởi tổ chức quốc tế hiện nay cho thấy, chương trình đào tạo (CTĐT) được phát triển dựa trên kết quả mô hình hợp tác quốc tế của các trường hoặc đề án trọng điểm của Bộ Giáo dục và Đào tạo. Tuy nhiên, chỉ 1 trường có đơn vị hỗ trợ đào tạo. Sinh viên sau tốt nghiệp đa phần do đơn vị thứ ba triển khai hoạt động lấy chứng chỉ hành nghề tại nước ngoài. Sinh viên đánh giá CTĐT đạt mức độ tốt (86,9%); mức độ cần cải tiến (13,1%). Giảng viên đánh giá CTĐT tiên tiến đạt mức độ tốt (71,4%); mức độ cần cải tiến (28,6%). Tất cả các CTĐT đều không có học phần nào do giảng viên nước ngoài phụ trách toàn phần. Một số chương trình thực tập có giảng viên nước ngoài tham gia giảng dạy trong các học phần.
Với mục tiêu cụ thể (3), kết quả khảo sát về các nhóm năng lực cần có ở giảng viên ngành y tế đáp ứng năng lực hội nhập quốc tế như sau: năng lực giảng dạy, triết lý lấy người học làm trung tâm và giáo dục người lớn (dao động từ 69% đến 94%); năng lực thiết kế và triển khai CTĐT (dao động từ 80% đến 90%); năng lực thực hành nghề nghiệp (dao động từ 86% đến 90%); năng lực nghiên cứu và áp dụng chứng cứ trong giảng dạy y khoa (dao động từ 78% đến 94%); năng lực giao tiếp (dao động từ 91% đến 95%); tính chuyên nghiệp và gương mẫu (dao động từ 90% đến 98%); đánh giá, lượng giá và giám sát (dao động từ 74% đến 94%); năng lực lãnh đạo và quản lý chất lượng đào tạo (dao động từ 75% đến 91%); năng lực ngoại ngữ (100%).
Ở mục tiêu cụ thể (4) đối sánh các chương trình đào tạo đạt chuẩn kiểm định bởi tổ chức quốc tế và các chương trình đào tạo chưa kiểm định, kết quả nghiên cứu cho thấy, các CTĐT bác sĩ y khoa, cử nhân điều dưỡng, dược sĩ đại học, cử nhân y tế công cộng giúp đào tạo nhân lực y tế trình độ quốc tế khi có các điều kiện sau: là chương trình liên kết đào tạo với trường đại học nước ngoài (nước phát triển); áp dụng toàn bộ CTĐT của trường đối tác nước ngoài và CTĐT được triển khai một phần tại trường đối tác; điều kiện ngoại ngữ đầu vào (khi tuyển sinh) và khi tốt nghiệp của các CTĐT này đều ở mức cao (B2 theo CEFR ở đầu vào và C2 theo CEFR ở đầu ra); là CTĐT tiên tiến hoặc đã đạt chuẩn kiểm định quốc tế (AUN-QA); có mục tiêu đào tạo nhân lực y tế làm việc ở môi trường quốc tế; có thời gian đào tạo dài hơn tiêu chuẩn hoặc tăng cường số tín chỉ ngoại ngữ để nâng cao trình độ ngoại ngữ cho người học; có điều kiện ngoại ngữ khi tốt nghiệp từ B2 (CEFR) trở lên; có dạy – học bằng ngoại ngữ. Các CTĐT tiêu chuẩn và chưa đạt chuẩn kiểm định quốc tế cần cải tiến theo các điều kiện của CTĐT tiên tiến để tiếp cận với đào tạo nhân lực y tế trình độ quốc tế.
Đối với mục tiêu cụ thể (5), nhóm nghiên cứu đề xuất 8 nhóm giải pháp đào tạo nhân lực trình độ quốc tế ngành y tế của TP.HCM giai đoạn 2022 - 2035, bao gồm: truyền thông marketing về các CTĐT nhân lực y tế có trình độ quốc tế cho xã hội và cán bộ, giảng viên ở các trường đại học; phát triển các CTĐT bác sĩ y khoa, cử nhân điều dưỡng, y tế công cộng và dược sĩ đại học đáp ứng yêu cầu chuẩn đầu ra; đổi mới phương pháp giảng dạy (lý thuyết, thực hành lâm sàng, mô phỏng) trong đào tạo khối ngành sức khỏe theo hướng tiếp cận năng lực; đổi mới kiểm tra, đánh giá người học trong đào tạo khối ngành sức khỏe theo hướng tiếp cận năng lực; tăng cường các điều kiện đảm bảo chất lượng để thực hiện đào tạo nhóm ngành sức khỏe đáp ứng kiểm định theo tiêu chuẩn quốc tế; tăng cường hợp tác quốc tế trong đào tạo đối với nhóm ngành sức khoẻ; xây dựng và phát triển văn hoá chất lượng trong các trường đại học có đào tạo nhóm ngành sức khoẻ; đổi mới quản trị đại học định hướng quốc tế trong các trường đại học có đào tạo nhóm ngành sức khoẻ.
Theo nhóm nghiên cứu, tất cả 8 giải pháp đều cần thiết và khả thi để các trường đại học có đào tạo nhóm ngành sức khỏe trên địa bàn Thành phố có thể áp dụng và chuẩn bị cho quá trình đào tạo nhân lực y tế trình độ quốc tế. Để thực hiện các giải pháp, nhóm kiến nghị với UBND Thành phố chỉ đạo, quán triệt Hội đồng Hiệu trưởng (HĐHT) các trường đại học nói chung và HĐHT các trường đại học có đào tạo nhóm ngành sức khỏe thực hiện đúng, đủ và sáng tạo các kế hoạch đã đề ra theo từng năm và theo giai đoạn 2021 - 2025, 2026 - 2030, 2031 - 2035; phát huy tối đa, khai thác vận dụng triệt để Nghị quyết số 98/2023/QH15 về thí điểm cơ chế, chính sách đặc thù phát triển TP.HCM vào giáo dục đại học. Sở Y tế Thành phố và các sở ban ngành có liên quan lập kế hoạch phối hợp trong giai đoạn triển khai đào tạo nhân lực y tế trình độ quốc tế. Các trường đại học có đào tạo nhóm ngành sức khỏe xây dựng cơ chế tự chủ và quản trị đại học hiệu quả theo kế hoạch chung của toàn Thành phố và theo đặc thù riêng của từng trường.
Nhiệm vụ cũng kiến nghị - đề xuất một số nội dung như: định hướng triển khai trong tương lai cần xem xét giao nhiệm vụ đào tạo trực tiếp (thay vì thông qua đấu thầu) nhân lực y tế trình độ quốc tế cho các cơ sở đào tạo có CTĐT đáp ứng yêu cầu theo Quyết định số 2426/QĐ-UBND (đề án tổng thể); đẩy mạnh công tác bồi dưỡng giảng viên, giảng viên thực hành lâm sàng theo nghị định 111; tham mưu xây dựng kinh phí triển khai đào tạo;…
Hội đồng nghiệm thu đánh giá, nhiệm vụ đã hoàn thành các nội dung nghiên cứu, đáp ứng được mục tiêu đề ra theo hợp đồng đặt hàng của Sở Khoa học và Công nghệ TP.HCM. Trong đó, đã đề xuất được khung CTĐT, đưa ra khung năng lực cho CTĐT nhân lực ngành y tế,… Đây là một trong những nội dung quan trọng giúp định hình mô hình nhân lực trình độ quốc tế, góp phần thực hiện đề án lớn của TP.HCM (Đề án tổng thể đào tạo nhân lực trình độ quốc tế), đáp ứng nhu cầu thị trường về chất lượng nguồn nhân lực cũng như phục vụ cho mục tiêu chung phát triển kinh tế xã hội Thành phố.
Diễm Hương – Lam Vân (CESTI)
Từ các loại sinh khối sẵn có tại Việt Nam như thân cây ngô, bã mía, lục bình, xơ dừa, các nhà khoa học thuộc Trường Đại học Khoa học Tự nhiên Thành phố Hồ Chí Minh đã đề xuất công trình nghiên cứu khoa học công nghệ chế tạo vật liệu điện cực xốp sử dụng carbon aerogel ứng dụng cho lọc nước lợ bằng công nghệ khử ion điện dung (CDI).
Nguồn vật liệu thân thiện với môi trường
Trong bối cảnh biến đổi khí hậu toàn cầu ngày càng gia tăng, hiện tượng nóng lên toàn cầu đã làm cho mực nước biển dâng lên, gây ra hiện tượng xâm nhập mặn tại nhiều khu vực trũng thấp trên thế giới nói chung và các khu vực ven biển của Việt Nam nói riêng. Điều này đã và đang ảnh hưởng nghiêm trọng đến cuộc sống hàng ngày, sản xuất nông nghiệp và sức khỏe của cộng đồng. Mức độ an toàn của nguồn nước ngọt và nguồn nước sạch trở thành thách thức lớn đối với nhân loại trong thế kỷ 21.
Theo Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), khoảng 2,2 tỷ người trên thế giới không có nguồn nước sạch để uống. Nhiều công nghệ khử mặn đã được phát triển để sản xuất nước ngọt từ nước biển hoặc nước lợ như thẩm thấu ngược (RO), thẩm phân điện (ED), chưng cất màng (MD) và khử ion điện dung (CDI). Các công nghệ khử muối thông thường bao gồm ED và MD đòi hỏi chi phí vốn cao và tiêu thụ năng lượng không thể cạnh tranh với RO là công nghệ chính để khử mặn nước biển. Tuy nhiên, tắc nghẽn và áp suất cao hạn chế ứng dụng của RO, đặc biệt là khi được sử dụng để xử lý nước có độ cứng cao, vì vậy việc thay thế màng RO thường xuyên và nhu cầu sử dụng máy bơm cao áp làm tăng vốn và chi phí vận hành. Do đó, việc tìm ra các phương pháp lọc nước hiệu quả và bền vững là cực kỳ cần thiết để bảo vệ sức khỏe cộng đồng và môi trường.
Trong những năm gần đây, công nghệ khử ion điện dung khử mặn bằng điện hấp phụ ion lên điện cực xốp, nổi lên như một công nghệ lọc nước mới, tiềm năng thu hút được nhiều sự quan tâm của giới khoa học. Ưu điểm chính của CDI là sử dụng vật liệu carbon rẻ tiền, thân thiện môi trường, hiệu suất dòng điện cao, tiêu hao năng lượng thấp (thấp hơn 3-5 lần so với RO), hoạt động ở điều kiện thường (nhiệt độ, áp suất thường) và tính đa dụng (ứng dụng làm mềm nước, xử lý nước thải,...)
Vật liệu điện cực là thành phần quan trọng trong hệ thống lọc CDI, ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu suất lọc. Hiện nay xu hướng phát triển vật liệu carbon xốp theo hướng sử dụng nguồn nguyên liệu sinh khối vừa tăng diện tích bề mặt điện cực, cấu trúc xốp đa dạng, giá thành rẻ đặc biệt đối với Việt Nam là một nước có truyền thống sản xuất nông nghiệp lâu đời nên có nguồn phụ phẩm nông nghiệp phong phú và đa dạng.
Từ nhu cầu thực tế về lọc nước lợ và tiềm năng ứng dụng của vật liệu carbon sinh khối của Việt Nam, Trường Đại học Khoa học Tự nhiên Thành phố Hồ Chí Minh đã đề xuất công trình nghiên cứu khoa học công nghệ chế tạo vật liệu điện cực xốp sử dụng carbon aerogel tổng hợp từ sinh khối Việt Nam ứng dụng cho lọc nước lợ bằng công nghệ khử ion điện dung.
Tiềm năng ứng dụng của vật liệu carbon sinh khối của Việt Nam
Nghiên cứu đã sử dụng các loại sinh khối sẵn có tại Việt Nam như thân cây ngô, bã mía, lục bình, xơ dừa để tổng hợp carbon aerogel. Công đoạn đầu tiên là xử lý sinh khối để chiết suất cellulose, sản phẩm cellulose thu được có màu trắng, tơi, xốp và chỉ số Kappa trong khoảng dưới 10 phù hợp làm tiền chất cho quá trình tạo thành vật liệu cellulose aerogel ở giai đoạn tiếp theo. Sau đó, nhóm thực hiện chế tạo cellulose aerogel từ cellulose sinh khối rồi chế tạo vật liệu carbon aerogel. Carbon aerogel dạng bột, có kích thước hạt khoảng 45 - 150 μm được sử dụng để chế tạo điện cực xốp cho thiết bị lọc nước lợ.
Bên cạnh việc sử dụng vật liệu carbon aerogel sinh khối để chế tạo điện cực xốp, thành phần phụ gia không thể thiếu cũng được thêm vào tạo composite. Lần lượt than ống nano (CNT), muội than (AB), MnO2, TiO2 được thêm vào thành phần composite với các tỷ lệ thích hợp đã tăng cường hoạt tính điện hóa của điện cực composite.
Hoạt tính điện hóa của điện cực được đánh giá bằng phương pháp quét thế vòng tuần hoàn (CV), phương pháp phóng - nạp dòng không đổi (GCD). Phép đo được thực hiện trên máy Autolab 320N, sử dụng hệ 3 điện cực gồm điện cực so sánh Ag, AgCl/KCl bão hoà, điện cực đối platin và điện cực làm việc là điện cực carbon aerogel, dung dịch điện ly NaCl 0,5 M.
Khả năng xử lý nước muối NaCl của điện cực carbon aerogel được đo trên một hệ thống mô phỏng thiết bị CDI, bao gồm: một stack CDI kết nối với nguồn điện một chiều có thể điều chỉnh điện thế áp và có thể đảo dòng điện, một bơm nhu động, một máy đo độ dẫn, một máy tính ghi nhận tín hiệu độ dẫn. Hệ stack CDI bao gồm hai điện cực carbon, bên trên là màng trao đổi cation và anion nằm đối xứng nhau, giữa hai màng được ngăn cách bằng một tấm đệm. Kích thước điện cực là 2,5 x 3,0 cm.
Sau hơn 50 chu kỳ hoạt động liên tục, điện cực vẫn thể hiện được khả năng xử lý muối tốt với dung lượng hấp phụ ổn định trong khoảng 15 - 20 mg/g. Điều này cho thấy khả năng ứng dụng của hệ vật liệu điện cực vào mô-đun CDI.
Mô-đun CDI được thiết kế với lưu lượng xử lý 2 - 6 l/phút, hiệu suất khử mặn đạt tối thiểu 90% với nguồn nước lợ có nồng độ muối tối đa 1.000 ppm. Điện cực CDI được thiết kế dạng tròn đường kính 180 mm, in hai mặt bằng vật liệu carbon aerogel trên đế dẫn graphite theo quy trình tối ưu đã thiết lập.
Hình 1. Hệ thống mô phỏng thiết bị khử muối theo công nghệ CDI
Hình 2. Điện cực carbon aerogel và mô-đun CDI
Tấm điện cực được cắt lỗ tròn đường kính 20 mm. Vỏ mô-đun có cấu trúc hình trụ gồm thân mô-đun có chiều cao 300 mm chế tạo từ ống nhựa PVC. Nắp mô-đun được chế tạo từ tấm nhựa PE gồm nắp trên và nắp dưới. Nắp được cố định vào thân vỏ mô-đun.
Kết quả thử nghiệm cho thấy, hệ thống lọc CDI sử dụng điện cực carbon aerogel có hiệu suất lọc cao lên đến 90,5% (từ nồng độ 1000 ppm xuống còn 100 ppm) ở điều kiện thử nghiệm với lưu lượng 3 - 5 l/phút, có thể loại bỏ hiệu quả các ion muối trong nước lợ.
Việc ứng dụng thành công vật liệu carbon sinh học trong công nghệ lọc nước mặn theo công nghệ CDI cho thấy rằng công nghệ này có nhiều tiềm năng ứng dụng tại Việt Nam. Thiết bị CDI có thể lắp đặt ở tất cả các khu vực có nước lợ, dễ dàng vận hành, bảo dưỡng, sửa chữa, thay thế. Việc đẩy mạnh triển khai nghiên cứu ứng dụng công nghệ CDI ở Việt Nam sẽ mở ra nhiều cơ hội cho sự phát triển sản phẩm nội địa “Made in Vietnam” cạnh tranh với các công nghệ ngoại nhập.
Kết quả của đề tài nghiên cứu này đã mang lại ý nghĩa quan trọng trong việc tìm ra nguồn vật liệu mới, thân thiên với môi trường và ứng dụng trong công nghệ khử mặn mới. Tạo tiền đề cho việc phát triển hướng nghiên cứu ứng dụng sinh khối của Việt Nam cho các công nghệ mới sử dụng vật liệu sinh khối như công nghệ lưu trữ điện và xử lý ô nhiễm.
Việt Nam là nước có nền Nông nghiệp phát triển, nguồn sinh khối phụ phế phẩm nông nghiệp rất dồi dào và đa dạng. Việc nghiên cứu chuyển hóa chúng thành vật liệu tiên tiến cho những ứng dụng có giá trị cao là hướng đi chiến lược hướng đến nâng cao giá trị nông nghiệp, giảm phát thải khí nhà kính mà chính phủ và toàn xã hội quan tâm. Sự kết hợp giữa công nghệ mới và nguồn nguyên liệu địa phương đã tạo ra một giải pháp tiên tiến và bền vững cho giải pháp chống xâm nhập mặn nói riêng và chống biến đổi khí hậu và ô nhiễm môi trường nói chung.
Thông tin liên hệ: Trường Đại học Khoa học Tự nhiên Thành phố Hồ Chí Minh Địa chỉ: 227 Nguyễn Văn Cừ, P. 4, Q. 5, TP. HCM Điện thoại: (028) 3835 0098 Website: https:// www.hcmus.edu.vn |
Sáng ngày 06 tháng 7 năm 2024, Ủy ban về người Việt Nam ở nước ngoài Thành phố Hồ Chí Minh đã tổ chức Chương trình điểm hẹn kiều bào số 01 năm 2024 với chủ đề “Vai trò cộng đồng doanh nhân Việt Nam ở nước ngoài trong hỗ trợ xúc tiến thương mại, kết nối tiêu thụ, giới thiệu, quảng bá sản phẩm, hàng hóa trên địa bàn Thành phố tham gia thực hiện truy xuất nguồn gốc theo Quyết định số 1039/QĐ-UBND”.
Bà Vũ Thị Huỳnh Mai, Chủ nhiệm Ủy ban về người Việt Nam ở nước ngoài Thành phố Hồ Chí Minh
Phát biểu tại chương trình, bà Vũ Thị Huỳnh Mai, Chủ nhiệm Ủy ban về người Việt Nam ở nước ngoài Thành phố Hồ Chí Minh cho biết, Ủy ban về người Việt Nam ở nước ngoài Thành phố Hồ Chí Minh với vai trò là cơ quan quản lý nhà nước về người Việt Nam ở nước ngoài trên địa bàn Thành phố và nhiệm vụ vận động nguồn lực người Việt Nam ở nước ngoài tham gia giới thiệu, tiêu thụ sản phẩm và phát triển các kênh phân phối hàng hóa trên địa bàn Thành phố và đặc biệt chú trọng các sản phẩm đã thực hiện truy xuất nguồn gốc hàng hóa theo hướng dẫn của các cơ quan chức năng trên địa bàn Thành phố. Ủy ban về người Việt Nam ở nước ngoài Thành phố Hồ Chí Minh đã chủ động phối hợp triển khai thực hiện và thông tin, phổ biến về kế hoạch triển khai quản lý truy xuất nguồn gốc sản phẩm hàng hóa trên địa bàn Thành phố gắn với hoạt động tại “Không gian văn hóa Hồ Chí Minh - Điểm hẹn kiều bào”.
Bà Võ Đình Liên Ngọc - Phó Chi cục trưởng Chi cục Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng (Sở Khoa học và Công nghệ) báo cáo tại Chương trình
Tại chương trình, bà Võ Đình Liên Ngọc - Phó Chi cục trưởng Chi cục Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng, đại diện Sở Khoa học và Công nghệ Thành phố đã thông tin một số kết quả triển khai “Kế hoạch triển khai, áp dụng và quản lý hệ thống truy xuất nguồn gốc trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn 2021-2030”. Theo đó, Sở Khoa học và Công nghệ Thành phố hàng năm đã thực hiện rà soát các văn bản quy định, pháp luật về quản lý, triển khai áp dụng và xử lý vi phạm về truy xuất nguồn gốc để tham mưu Ủy ban nhân dân Thành phố Danh mục văn bản quy định, pháp luật về truy xuất nguồn gốc còn hiệu lực, giúp công tác triển khai kế hoạch được thuận tiện, hiệu quả, thống nhất, đồng bộ.
Hiện tại, Bộ Khoa học và Công nghệ đã công bố danh mục 36 Tiêu chuẩn quốc gia (TCVN) về truy xuất nguồn gốc.
Đồng thời, Sở Khoa học và Công nghệ cũng đã tham mưu Ủy ban nhân dân Thành phố ban hành Danh mục sản phẩm, hàng hóa ưu tiên triển khai truy xuất nguồn gốc trên địa bàn Thành phố (theo Quyết định số 1383/QĐ-UBND ngày 12 tháng 4 năm 2023 của Ủy ban nhân dân Thành phố). Danh mục sản phẩm, hàng hóa ưu tiên triển khai truy xuất nguồn gốc trên địa bàn Thành phố gồm 7 nhóm sản phẩm, hàng hóa: Thịt heo, thịt gia cầm, trứng gia cầm, rau quả tươi, tôm, thủy sản sơ chế có bao gói (cá rô, cá lóc, cá sặc, khô cá dứa), tổ yến.
Bên cạnh đó, Sở Khoa học và Công nghệ đã có văn bản triển khai hướng dẫn kết nối với Cổng thông tin truy xuất nguồn gốc sản phẩm, hàng hóa quốc gia (hiện Cổng thông tin truy xuất nguồn gốc sản phẩm, hàng hóa quốc gia đang chạy thử nghiệm) đến các sở, ban ngành Thành phố, UBND các quận, huyện và thành phố Thủ Đức theo hướng dẫn của Trung tâm mã số mã vạch quốc gia – Tổng cục Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng.
Ngoài ra, Sở Khoa học và Công nghệ TPHCM hiện đang triển khai tổ chức đặt hàng “Xây dựng tài liệu hướng dẫn về mô hình thực hiện truy xuất nguồn gốc cho sản phẩm, hàng hóa rau quả tươi thuộc Danh mục sản phẩm hàng hóa ưu tiên triển khai truy xuất nguồn gốc trên địa bàn Thành phố”. Mô hình thực hiện truy xuất nguồn gốc rau quả tươi sẽ giúp chuẩn hóa phương thức thực hiện truy xuất nguồn gốc, áp dụng một cách nhất quán, qua đó nhân rộng mô hình và đẩy mạnh hoạt động truy xuất nguồn gốc cho các sản phẩm, hàng hóa khác.
Tại chương trình, các đại biểu đã cùng thảo luận về kinh nghiệm của các nước đã thực hiện truy xuất nguồn gốc sản phẩm, hàng hóa qua đó đưa ra những thuận lợi và khó khăn đối với việc đưa hàng hóa trên địa bàn Thành phố đã thực hiện truy xuất nguồn gốc tham gia các kênh phân phối của cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài. Vai trò đồng hành của cộng đồng doanh nghiệp người Việt ở nước ngoài trong việc thúc đẩy đưa hàng hóa đã thực hiện truy xuất nguồn gốc và những khó khăn, vướng mắc, kinh nghiệm về truy xuất nguồn gốc sản phẩm nói chung và nông sản nói riêng./.
Một số hình ảnh tại Chương trình
Chi cục Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng
Với mong muốn tìm kiếm các giải pháp cải thiện tình trạng mất ngủ, con người dần dần tìm đến các phương pháp bằng những liều thuốc, bên cạnh các loại thuốc có nguồn gốc hóa dược trên thị trường là các thuốc có nguồn gốc thảo dược và các bài thuốc y học cổ truyền có nguồn gốc rõ ràng, giá cả phải chăng, cụ thể là các sản phẩm thuốc giải lo âu, an thần. Từ nhu cầu thực tế, nhóm nghiên cứu thuộc Đại học Y Dược TP Hồ Chí Minh đã tiến hành nghiên cứu để tìm thêm giải pháp hiệu quả trong điều trị triệu chứng mất ngủ từ bài thuốc có thành phần gồm các dược liệu: Xấu hổ, Vông nem, Hậu phác nam và Cam thảo nam. Đây là nhiệm vụ do Đại học Y Dược TP Hồ Chí Minh chủ trì thực hiện, TS. Hứa Hoàng Oanh làm chủ nhiệm nghiên cứu.
Xu hướng sử dụng thuốc an thần để điều trị mất ngủ
Hiện nay, mất ngủ được coi là một trong những vấn đề quan trọng, ảnh hưởng trực tiếp tới sức khỏe con người không chỉ thể chất mà cả tinh thần. Ngoài ra, một số nghiên cứu cho thấy khoảng 19-74% triệu chứng mất ngủ liên quan đến yếu tố tâm thần. Có nhiều nguyên nhân gây mất ngủ, một số nghiên cứu cho thấy mối tương quan đáng kể giữa các triệu chứng của trầm cảm, lo âu, căng thẳng và chứng mất ngủ. Để điều trị mất ngủ, ngoài liệu pháp tâm lý thì việc sử dụng thuốc an thần là rất quan trọng. Thị trường trong nước hiện có nhiều sản phẩm thuốc giải lo âu, an thần với nguồn gốc hóa dược. Những thuốc này cho hiệu quả tốt, tuy nhiên có nhiều hạn chế do các tác dụng không mong muốn, đặc biệt là gây tăng dung nạp, lệ thuộc thuốc. Hơn nữa, đa số sản phẩm thảo dược có thành phần từ dược liệu nhập khẩu nên chất lượng khó kiểm soát, giá thành khá cao. Vì vậy, các thầy thuốc đã nghiên cứu thang thuốc có thành phần từ dược liệu nguồn gốc thuốc nam, phối ngẫu theo kinh nghiệm và lý luận y học cổ truyền. Tuy nhiên, việc này có nhược điểm là cần chuẩn bị dụng cụ sắc, tốn thời gian sắc thuốc, bất tiện cho bệnh nhân ngoại trú. Thấu hiểu thực trạng ấy, nhóm nghiên cứu thuộc Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh đã thực hiện chuyển dạng bào chế viên nang cứng từ bài thuốc có thành phần gồm các dược liệu: Xấu hổ, Vông nem, Hậu phác nam và Cam thảo nam giúp tăng hiệu quả và tuân thủ điều trị cho người sử dụng thuốc.
Hình ảnh sản phẩm viên nang An Thần, sản phầm do nhóm nghiên cứu của Đạị học Y Dược TP Hồ Chí Minh thực hiện
Tính an toàn và tác dụng an thần, giải lo âu, chống trầm cảm của sản phẩm và Tác động đến Kinh tế, Xã hội và Môi trường
Nhóm nghiên cứu đã đánh giá tính an toàn của viên nang cứng an thần với liều tối đa 108 viên/kg thể trọng chuột, không thể hiện độc tính cấp đường uống. Về độc tính bán trường diễn, chuột uống viên nang cứng an thần với liều 1-2 viên/kg mỗi ngày một lần, liên tục trong 60 ngày, không cho thấy bất kỳ bất thường nào về hành vi, thể trạng tổng quát, chức năng gan-thận và công thức máu. Kết quả này khẳng định sản phẩm an toàn, không có độc tính. Khi đánh giá tác dụng an thần, giải lo âu, chống trầm cảm trên chuột bị stress cô lập, viên nang liều 1 viên/kg và 2 viên/kg giúp hồi phục giấc ngủ diazepam bị rút ngắn. Đặc biệt, liều 1 viên/kg thể hiện tác dụng giải lo âu rõ rệt hơn, cả hai liều đều có tác dụng chống trầm cảm. Dựa trên kết quả dược lý, liều dự kiến cho người là uống ngày 2 lần, mỗi lần 2-4 viên, vào buổi tối và 60 phút trước khi ngủ.
Sản phẩm chất lượng từ dược liệu có nguồn gốc xác định (C/O) và đạt tiêu chuẩn chất lượng (C/Q) phù hợp với định hướng phát triển ngành dược Việt Nam. Việc phát triển viên nang từ dược liệu như Xấu hổ, Vông nem, Hậu phác nam và Cam thảo nam không chỉ mở ra hướng điều trị mất ngủ mới, mà còn bảo tồn kiến thức y học truyền thống và sử dụng bền vững nguồn dược liệu bản địa. Kinh tế được cải thiện nhờ tạo ra sản phẩm mới, tăng giá trị cho nguyên liệu địa phương và mở rộng thị trường xuất khẩu. Xã hội hưởng lợi từ việc cải thiện sức khỏe cộng đồng, giảm gánh nặng bệnh tật và tăng cường kiến thức về chăm sóc sức khỏe tự nhiên. Môi trường được bảo vệ khi áp dụng các phương pháp sản xuất thân thiện, giảm thiểu hóa chất độc hại và khuyến khích trồng dược liệu hữu cơ. Tuy nhiên, cần quản lý nguồn dược liệu để tránh khai thác quá mức, đảm bảo cân bằng và phục hồi hệ sinh thái. Nghiên cứu cần thực hiện trách nhiệm, minh bạch và công bằng trong chia sẻ lợi ích từ các giải pháp, giúp tối ưu hóa lợi ích kinh tế và xây dựng xã hội bền vững, môi trường sống lành mạnh cho thế hệ tương lai.
Sơ lược kết quả mà nhóm nghiên cứu đã đạt được, kết luận và kiến nghị của nhóm nghiên cứu
Nhóm nghiên cứu đã tiến hành một loạt các bước quan trọng trong quá trình nghiên cứu và phát triển thang thuốc điều trị mất ngủ từ các dược liệu Xấu hổ, Vông nem, Hậu phác nam và Cam thảo nam. Đầu tiên, các nguyên liệu này đã được lấy mẫu và kiểm nghiệm đạt tiêu chuẩn theo Dược điển Việt Nam V (DĐVN V) và theo tiêu chuẩn cơ sở đối với các dược liệu chưa có tiêu chuẩn trong DĐVN V. Quy trình định lượng chất đánh dấu như mimosin trong Xấu hổ và coixol trong Cam thảo nam đã được xây dựng và thẩm định kỹ lưỡng. Tiếp theo, nhóm nghiên cứu đã chiết xuất cao từ dược liệu bằng cách tối ưu hóa điều kiện chiết xuất với dung môi là nước, tỷ lệ dược liệu với dung môi là 1:21, chiết 2 lần, mỗi lần 2 giờ tính từ lúc nước bắt đầu sôi. Quy trình chiết xuất cao và định lượng chất đánh dấu như mimosin và coixol, cùng với chất bảo quản kali sorbat trong cao chiết, được xây dựng và thẩm định bằng phương pháp HPLC-PDA. Nhóm nghiên cứu cũng đã thực hiện định tính sự hiện diện của các dược liệu Xấu hổ, Vông nem, Hậu phác nam và Cam thảo nam trong cao chiết bằng sắc ký lớp mỏng và định lượng chất đánh dấu trong cao chiết bằng phương pháp HPLC. Tiêu chuẩn cơ sở cao chiết bao gồm các chỉ tiêu cảm quan, độ ẩm, định tính, giới hạn kim loại nặng, giới hạn nhiễm khuẩn, dư lượng thuốc bảo vệ thực vật và định lượng đồng thời mimosin và coixol trong cao chiết. Sau đó, nhóm nghiên cứu đã sản xuất ba lô cao chiết từ dược liệu với quy mô 40 kg dược liệu mỗi lô và đánh giá khả năng tái lặp của quy trình sản xuất. Kết quả cho thấy quy trình sản xuất phù hợp và có khả năng tái lặp.
Nhóm nghiên cứu đã đánh giá độc tính cấp của cao chiết nước (cao khô quy về 0% độ ẩm) và kết quả cho thấy không có độc tính đường uống với liều tối đa 39 g/kg thể trọng chuột. Khảo sát liều cao có tác dụng an thần, giải lo âu cũng được thực hiện qua thực nghiệm hồi phục giấc ngủ diazepam và thực nghiệm sáng/tối. Trong giai đoạn tiếp theo, nhóm tiến hành nghiên cứu bào chế sản phẩm, khảo sát loại tá dược và tỷ lệ phù hợp để xây dựng công thức viên nang cứng. Sản phẩm viên nang cứng số 0, màu đỏ, chứa hàm lượng tương đương 360 mg cao (quy về 0% độ ẩm) đã được bào chế thành công với ba lô quy mô phòng thí nghiệm mỗi lô 1.000 viên. Tiêu chuẩn cơ sở sản phẩm được đề xuất và quy trình sản xuất viên nang cứng được thử nghiệm trên ba lô nghiên cứu với quy mô 14.000 viên mỗi lô. Cuối cùng, nhóm nghiên cứu đã tiến hành khảo sát độ ổn định của viên nang cứng trong điều kiện bảo quản thực tế và điều kiện già hóa cấp tốc. Kết quả sau thời gian 0, 3, và 6 tháng cho thấy sản phẩm đạt chất lượng theo tiêu chuẩn cơ sở và không có sự biến đổi về chất lượng so với ban đầu. Những kết quả này đã mở ra triển vọng mới trong việc ứng dụng dược liệu trong điều trị mất ngủ và mang lại hy vọng cho những người gặp vấn đề về giấc ngủ.
Sản phẩm này không chỉ nâng cao sức khỏe cho người dân TP. Hồ Chí Minh và cả nước, giúp giảm tỷ lệ mất ngủ do stress mà còn giảm chi phí điều trị nhờ kiểm soát được chất lượng và hiệu quả điều trị. Thang thuốc được hiện đại hóa và ứng dụng hiệu quả hơn, sử dụng nguyên liệu trong nước, nâng cao giá trị dược liệu bản địa. Kết quả nghiên cứu góp phần phát triển vùng trồng dược liệu trong nước, cung cấp cho ngành công nghiệp dược và tiềm năng xuất khẩu, tạo cơ hội kinh tế cho người trồng dược liệu và việc làm cho lao động vùng nông nghiệp, cải thiện kinh tế cho người dân.
Thông tin liên hệ: Đại học Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh Địa chỉ: 217 Hồng Bàng, phường 11, Quận 5, TP.HCM Điện thoại: (+84-28) 3855 8411 - (+84-28) 3853 7949 - (+84-28) 3855 5780 Website: www.ump.edu.vn |
Các nghiên cứu trước đây đều cho rằng giả thuyết nguyên nhân dẫn đến bệnh đen xơ mít là do vi khuẩn. Mít bị bệnh không có triệu chứng bên ngoài, chỉ khi được bổ ra mới thấy rõ được dấu hiệu của bệnh. Điều này cho thấy bệnh đen xơ mít còn khó phát hiện và việc tìm ra nguyên nhân gây bệnh không dễ dàng, gây khó khăn cho việc tìm biến pháp xử lý. Vì vậy, việc đưa ra giải pháp, khuyến cáo cho gặp không ít khó khăn. Người dân đã phòng ngừa bệnh đen xơ mít bằng các sử dụng ngẫu nhiên một số loại thuốc bảo vệ thực vật trên thị trường để ngăn ngừa bệnh lây lan nhưng chưa thực sự mang lại hiệu quả. Để có thể đưa ra các giải pháp và khuyến nghị phù hợp đối với bệnh đen xơ mít, đồng thời giúp người dân trong việc canh tác đạt năng suất và chất lượng cao, nhóm nghiên cứu trường Đại học Nông Lâm TP Hồ Chí Minh đã nghiên cứu đề tài “Nghiên cứu tác nhân gây đen xơ mít tại một số tỉnh thành phía Nam và đề xuất giải pháp phòng trừ” với mục tiêu đánh giá thực trạng, tác nhân gây đen xơ mít Thái tại TP Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Tiền Giang và đề xuất một số giải pháp phòng trừ.
Phát triển cây mít ở Việt Nam: Tình hình, Thách thức và Cơ hội xuất khẩu
Mít là một trong những cây ăn trái được Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã ký ban hành Quyết định số 4085/QĐ-BNN-TT phê duyệt Đề án Phát triển cây ăn quả chủ lực đến năm 2025 và 2030. Ổn định diện tích khoảng 50 ngàn ha, sản lượng 600-700 ngàn tấn. Đến năm 2022, cả nước trồng gần 60.000 ha mít, sản lượng gần 550.000 tấn. Ở Việt Nam cây Mít đã được trồng trên khắp các tỉnh thành trên cả nước, diện tích nhiều tập trung ở vùng Đông Nam Bộ như: Bà Rịa Vũng Tàu, Bình Dương, Bình Phước, Đồng Nai. Theo truyền thống, mít chủ yếu được trồng trong vườn hộ gia đình, trồng thành rừng hoặc trang trại. Đến nay các tỉnh miền Tây Nam Bộ đã phát triển trồng mít mạnh gồm Vĩnh Long, Long An, Đồng Tháp, Tiền Giang, Hậu Giang, Cần Thơ…
Mít xuất khẩu sang Trung Quốc được phân nhiều loại giá. Giá mít xuất khẩu Trung Quốc chênh lệch giữa các loại 5.000-10.000/kg. Cây mít là một trong những cây quan trọng trong việc xóa đói giảm nghèo hiện nay ở Việt Nam nói riêng và một số nước Đông Nam Á nói chung. Đẩy mạnh việc duy trì và phục hồi các giống mít đặc sản địa phương, chọn tạo, nhập nội, mở rộng các giống mới chất lượng, thuận lợi cho tiêu thụ và chế biến. Xây dựng hệ thống vườn đầu dòng, đảm bảo cung cấp giống có chất lượng phục vụ sản xuất.
Nhưng để trồng được các loại mít chất lượng, mang lại nguồn thu nhập cao, các nhà nông cần phải quản lý dịch bệnh và có kinh nghiệm và kỹ thuật canh tác tốt. Đặc biệt vào mùa mưa, sâu và dịch bệnh thường lan nhanh. Bệnh nghiêm trọng nhất gây giảm chất lượng và giảm giá mít gặp phải hiện nay là bệnh xơ đen.
Hiện trạng và giải pháp ngăn ngừa bệnh đen xơ mít tại TP Hồ Chí Minh, Đồng Nai và Tiền Giang
Kết quả điều tra tại ba tỉnh cho thấy hiện trạng tại TP Hồ Chí Minh, bệnh đen xơ mít chủ yếu xuất hiện vào mùa mưa, với 62,5% vườn mít bị bệnh từ 10-40% và 34,4% bị dưới 10%. Ở Đồng Nai, bệnh không xuất hiện vào mùa khô, nhưng 56,5% vườn mít bị bệnh từ 10-40% vào mùa mưa. Tại Tiền Giang, bệnh xuất hiện ở cả hai mùa, với 52-67% vườn mít bị bệnh từ 10-40%.
Theo thực tế điều tra diễn biến bệnh, trong mùa khô tại TP Hồ Chí Minh, bệnh xuất hiện sớm và tập trung từ giai đoạn đậu trái đến 50 ngày sau đậu trái (NSĐT), cao nhất ở giai đoạn 10-30 NSĐT, và không xuất hiện ở giai đoạn 60-90 NSĐT. Vào mùa mưa, bệnh xuất hiện ở tất cả các giai đoạn với tỷ lệ cao hơn, đặc biệt ở giai đoạn 20-50 NSĐT (33,33%-55,56%) và vẫn xuất hiện ở giai đoạn thu hoạch 100 NSĐT với tỷ lệ 22,22%.
Như vậy, đa phần bệnh đen xơ mít xuất hiện vào mùa mưa với tỷ lệ cao hơn gây ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình hình thành và phát triển của mít, gây khó khăn trong quá trình canh tác và trồng trọt của người dân. Từ hiện trạng trên, nhóm nghiên cứu tiến hành tìm hiểu và đưa ra các giải pháp nhằm ngăn ngừa tình trạng đen xơ mít giúp ích cho người dân trong quá trình canh tác và đạt hiệu quả cao.
Kết quả đạt được của nhóm nghiên cứu
Nghiên cứu đã bước đầu xây dựng được bản đồ về phân bố tỷ lệ đen xơ mít vào mùa mưa tại ba tỉnh TP Hồ Chí Minh, Đồng Nai và Tiền Giang. Bệnh đen xơ gây hại đặc biệt trên giống mít Thái khá sớm, đặc biệt xuất hiện nhiều vào mùa mưa thời điểm 20-30 NSĐT, có thể nhận diện qua hình dạng trái, mầu gai và cuống. Tác nhân gây bệnh là vi khuẩn Pantoea stewartii subsp. stewartii. Vi khuẩn có thể xâm nhiễm ở tất cả các giai đoạn hình thành và phát triển trái. Ngoài giống mít Thái siêu sớm vi khuẩn Pantoea stewartii subsp. stewartii chủng HCM09 cũng thể hiện khả năng gây bệnh trên múi mít giống mít Tố Nữ, mít Lá Bàng và mít Nghệ trong điều kiện phòng thí nghiệm và một số loại cây trồng khác trong điều kiện nhà lưới.
Trái mít bị bệnh đen xơ được phát hiện từ sớm
Xác định được các hoạt chất thuốc hóa học gồm Oxolinic acid (1,88 g/L và 3,75 g/L), Bronopol (0,69 g/L và 1,38 g/L), Oxytetracycline hydrochloride + Streptomycin sulfate (0,25 g/L và 0,50 g/L) có khả năng kiểm soát vi khuẩn Pantoea stewartii subsp. stewartii chủng HCM01 trong điều kiện phòng thí nghiệm và phòng trừ bệnh đen xơ mít trên đồng ruộng.
Tiếp đến, nghiên cứu xây dựng thành công 03 mô hình thử nghiệm biện pháp quản lý bệnh đen xơ trên cây mít thái tại TP Hồ Chí Minh, Đồng Nai và Tiền Giang với hiệu quả kiểm soát bệnh đạt trên 100% tại thời điểm thu hoạch mít.
Ba mô hình thử nghiệm đen xơ mít tại 3 tỉnh đa số đều cho thấy, giống mít ít có trái bị bệnh đen xơ ở giai đoạn tỉa trái và không ghi nhận mít bị đen xơ ở giai đoạn thu hoạch nhờ sử dụng mô hình quản lý tổng hợp bệnh đen xơ mít, mô hình này cho thấy tỉ lệ ra trái ít bị đen xơ hiệu quả hơn so với mô hình quản lý bệnh xơ đen theo tập quán nông dân. Ngoài ra, mô hình quản lý bệnh đen xơ mít tổng hợp cho hiệu quả cao là do sử dụng phối hợp các loại thuốc có tính kháng cho cây mít, thuốc trừ khuẩn, kết hợp với bổ sung Canxi-bo giúp trái mít phát triển tốt, hạn chế sự xâm nhập của vi khuẩn gây bệnh.
Trái mít không bị đen xơ sau thu hoạch
Sau khi tiến hành nghiên cứu và tìm hiểu, nhóm nghiên cứu đã đưa ra một số các giải pháp phòng trừ bước đầu bao gồm các bước:
(1) Sử dụng phân bón Canxi-Bo vào giai đoạn làm bông, trước đậu trái và sau đậu trái.
(2) Sử dụng các hoạt chất tăng kích kháng cho cây giai đoạn làm bông và nuôi trái.
(3) Tỉa và tuyển trái, loại bỏ các trái có các biểu hiện bên ngoài nghi ngờ nghiêm bệnh (cuống, gai, mầu và hình dạng trái).
(4) Phun xịt các thuốc BVTV chứa các hoạt chất Oxolinic acid (1,88 g/L và 3,75 g/L), Bronopol (0,69 g/L và 1,38 g/L), Oxytetracycline hydrochloride + Streptomycin sulfate (0,25 g/L và 0,50 g/L), Kasugamycin 20g/L vào giai đoạn 10-30 ngày sau đậu trái và 1-2 lần trong giai đoạn nuôi trái.
Các giải pháp mà nhóm nghiên cứu đưa ra sẽ giúp người dân hạn chế và ngăn chặn được mít bị đen xơ ngay từ khi mít còn nhỏ, tăng khả năng sinh trưởng, cho ra được giống mít chất lượng.
Tổ chức hội thảo về bệnh đen sơ mít, nguyên nhân và giải pháp phòng trừ cho địa phương
Nhóm nghiên cứu cũng đã tổ chức nhiều buổi hội thảo khoa học tại nhiều địa phương để thông tin cho bà con nông dân về bệnh đen sơ mít, nhóm nghiên cứu đã thu được những kết quả tích cực. Bà con nông dân đã hiểu rõ hơn về bệnh đen sơ mít, nhận thức được các nguyên nhân gây bệnh và nắm vững các phương án phòng trừ hiệu quả. Nhiều nông dân đã áp dụng ngay các biện pháp phòng ngừa và điều trị mà nhóm nghiên cứu đề xuất, giúp giảm thiểu đáng kể tác động của bệnh lên cây trồng. Sự tương tác và trao đổi kinh nghiệm giữa các nông dân và chuyên gia trong buổi hội thảo đã tạo nên một không khí hợp tác và học hỏi lẫn nhau, góp phần nâng cao kiến thức và kỹ năng canh tác của bà con. Nhờ vào sự chuẩn bị kỹ lưỡng và cách tiếp cận dễ hiểu, buổi hội thảo đã thành công trong việc nâng cao nhận thức và đem lại những giải pháp thực tiễn, giúp bà con nông dân bảo vệ vườn cây của mình và cải thiện năng suất.
Tỉa và tuyển trái, loại bỏ các trái nghi ngờ nhiễm bệnh
Tóm lại, nghiên cứu này đã giúp người dân hiểu rõ hơn về nguyên nhân dẫn đến bệnh đen xơ mít và từ đó đề xuất các giải pháp phòng ngừa, giúp việc canh tác và trồng mít mang lại hiệu quả cao hơn, không chỉ về chất lượng trái mít mang lại mà còn duy trì các giống mít có chất lượng tốt nhằm phát triển hơn các giống mít chất lượng trong tương lai. Từ đó mang lại nguồn thu nhập ổn định về kinh tế, đem lại giá trị lợi nhuận kinh tế cao trong ngành nông nghiệp. Ngoài ra, kết quả của đề tài nghiên cứu này đã mang lại ý nghĩa quan trọng trong việc tìm ra giải pháp mới cho ngành nông nghiệp trong tương lai.
Thông tin liên hệ: Trường Đại học Nông Lâm Thành phố Hồ Chí Minh Địa chỉ: Khu phố 6, P. Linh Trung, Tp. Thủ Đức, TP.HCM Điện thoại: (028) 38966780 Website: https://www.hcmuaf.edu.vn |